Sốt rét là bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng Plasmodium spp gây ra, thường gặp ở các quốc gia vùng nhiệt đới.
Ký sinh trùng này sống chủ yếu trong hồng cầu và gây nên bệnh cảnh toàn thân, có thể gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau.
Biểu hiện điển hình của bệnh là cơn sốt rét, có kèm gan, lách to hoặc thiếu máu. Những thể lâm sàng nặng (sốt rét ác tính) có tổn thương não, đái huyết cầu tố, suy thận, suy gan, trụy tim mạch có thể gây tử vong.
Tác nhân gây bệnh sốt rét: có khoảng 60 loại ký sinh trùng sốt rét khác nhau, nhưng chỉ có 4 loại gây bệnh ở người: P.falciparum, P.Vivax, P.Malariae, P.ovale.
Hiện nay, tại Việt Nam lưu hành cả 4 loại ký sinh trùng, nhưng hay gặp là P.falciparum và P.vivax, trong đó P.falciparum thường gây bệnh cảnh sốt rét ác tính.
Biểu hiện của bệnh sốt rét có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố: loại ký sinh trùng, tình trạng miễn dịch, yếu tố cơ địa như thai nghén, suy dinh dưỡng…
Biểu hiện lâm sàng
Thời kỳ ủ bệnh: là thời gian tính từ khi bị muỗi đốt đến khi có biểu hiện lâm sàng đầu tiên. Bệnh nhân có cảm giác khó chịu, ớn lạnh.
Thời kỳ ủ bệnh kéo dài trung bình 12 ngày (9-14 ngày) đối với P.falciparum, 14 ngày (8-17) đ��i với P.Vivax, 28 ngày đối với P.malariae và 17 ngày (16-18) đối với P.ovale.
Thời gian ủ bệnh của P.Vivax có thể kéo dài hơn, vài tuần đến vài tháng tùy theo số lượng ký sinh trùng, khả năng chống đỡ của vật chủ.
Ảnh minh họa
Cơn sốt rét điển hình
Thời gian này ký sinh trùng phát triển trong hồng cầu, cơn sốt tương ứng với các đợt phóng thích của thể phân liệt vào tuần hoàn.
Trong vài ngày đầu, sốt có thể kéo dài thất thường, sau đó thành cơn rõ rệt. Cơn sốt rét điển hình được chia làm 3 thời kỳ.
- Giai đoạn lạnh: Bắt đầu bằng cơn sốt rét run từ 15 phút đến 1 giờ. Bệnh nhân mệt mỏi, nhức đầu, buồn nôn và nôn, mạch nhanh.
- Giai đoạn sốt nóng: Nhiệt độ tăng cao dần 39-40oC, da nóng và khô. Bệnh nhân có nhức đầu nhưng giảm buồn nôn. Giai đoạn này kéo dài từ nửa giờ đến 6 giờ.
- Giai đoạn đổ mồ hôi: Sau cơn nóng, bệnh nhân vã mồ hôi, nhiệt độ và mạch về bình thường, da ấm. Giai đoạn này kéo dài trên 1 giờ. Bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn và cảm giác buồn ngủ.
Khoảng cách giữa 2 cơn sốt đối với P.Falciparum là 24 giờ hoặc 48 giờ, với P.vivax và ovale là khoảng 48 giờ và đối với P.malariae là 72 giờ.
Trong cơn sốt rét bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc được nhưng mệt, gan và lách quá bờ sườn, đau. Sau nhiều cơn sốt người bệnh có thể xanh xao, thiếu máu.
1 số dấu hiệu dự báo của sốt rét có biến chứng: như li bì, cuồng sảng, vật vã, sốt cao liên tục, rối loạn tiêu hóa như nôn nhiều lần trong ngày, tiêu chảy mất nước, đau bụng cấp, nhức đầu dữ dội, thiếu máu nặng, mật độ ký sinh trùng thường cao.
Điều trị sốt rét
Tùy theo từng loại sốt rét, cơ địa người bệnh (người già, trẻ em, phụ nữ có thai), sốt rét thường hay sốt rét ác tính mà lựa chọn thuốc điều trị phù hợp. Các loại thuốc điều trị sốt rét thông thường gồm có:
- Thuốc điều trị diệt thể vô tính trong hồng cầu như: Quinin sulfat, chloroquin, artesunat, arterakine.
- Thuốc diệt thể giao bào: Primaquine (diệt được giao bào của các loại ký sinh trùng); tuy nhiên thuốc này không dùng cho phụ nữ có thai, trẻ dưới 3 tháng tuổi, người có tiền sử thiếu men G6PD hoặc đang nghi ngờ đái huyết cầu tố.
- Các kháng sinh: Doxixyclin chỉ dùng để phối hợp quinine trong trường hợp điều trị bằng quinine, không có hiệu quả ở người lớn và trẻ trên 8 tuổi.
Clindamycin chỉ dùng phối hợp quinine trong trường hợp phụ nữ có thai 3 tháng đầu và trẻ dưới 8 tuổi điều trị bằng quinine không có hiệu quả.
Tùy từng loại sốt rét mà bệnh nhân mắc phải, cơ địa và sốt rét thường hay có biến chứng, bác sĩ sẽ lựa chọn các biện pháp điều trị khác nhau.